Kiến nghị của Công ty Luật TGS về Thông tư liên tịch số 01/2018-TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC

Kiến nghị của Công ty Luật TGS về Thông tư liên tịch số 01/2018-TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC

Kiến nghị của công ty Luật TNHH TGS về Thông tư liên tịch số 01/2018-TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23/01/2018 quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ sở tạm giữ, tạm giam với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý thi hành tạm giữ tạm giam.

Theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định mục tiêu:

“Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.

Để thực hiện được mục tiêu nêu trên thì một trong những nhiệm vụ chiến lược nêu rõ phải phân định rõ thẩm quyền, căn cứ tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp tạm giam. Vấn đề về bảo vệ quyền và tự do của người bị buộc tội mang tính đặc biệt quan trọng trong thực tiễn thực hiện các thủ tục tố tụng tư pháp. Điều 11 Tuyên ngôn nhân quyền Liên hợp quốc (10-12-1948) nêu rõ:

“Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ”.

Việt Nam đã tham gia ký bản Tuyên ngôn vào năm 1982, nhà nước ta mong muốn và cam kết thực hiện đầy đủ  văn bản quốc tế về nhân quyền. Hiến pháp năm 2013 đã quy định tương đối đầy đủ các quyền con người tương ứng với quy định tại bản Tuyên ngôn và các công ước quốc tế về quyền con người. Theo đó:

+ Quyền không bị tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục được quy định tại Khoản 1 Điều 20;

+ Quyền được suy đoán vô tội được quy định tại khoản 1 Điều 31;

+ Quyền được bào chữa và được sự trợ giúp của luật sư ngay khi bị bắt và giam giữ được quy định tại khoản 4 Điều 31;

+ Quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập và không thiên vị được quy định tại khoản 2 Điều 31;

+ Quyền được xét xử trong thời gian hợp lý và không bị trì hoãn cũng được quy định tại khoản 2 Điều 31;

+ Quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng được quy định tại Điều 16.

Quá trình thực hiện tố tụng tư pháp ảnh hưởng rất nhiều đến các quyền hiến định và tự do của công dân, đặc biệt là các biện pháp ngăn chặn áp dụng được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi luật định đối với người không tuân thủ quy định của pháp luật hoặc nhằm ngăn chặn hành vi không tuân thủ đó, đảm bảo cho quá trình tố tụng được thuận lợi. Chỉ những cơ quan do luật định mới có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng đối với một số đối tượng nhất định.

Trong tố tụng hình sự, luật sư tham gia vào nhiều giai đoạn của vụ án với tư cách người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Luật sư tiến hành gặp gỡ, tham gia lấy lời khai của người bị buộc tội ngay khi được cấp Giấy đăng ký bào chữa. Công việc này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm tính khách quan của việc điều tra, hạn chế được các vi phạm pháp luật có thể xảy ra như: ép cung, mớm cung, bức cung, làm sai lệch hồ sơ vụ án… Mặc dù việc gặp gỡ bị can trong giai đoạn này là hoạt động cần thiết và được luật tố tụng hình sự cho phép, tuy nhiên nhiều trường hợp khi luật sư muốn tiếp cận bị can thì thường không thực hiện được do cơ quan điều tra đưa ra lý do là “điều tra viên đang bận công tác khác” hoặc “án phức tạp nên chưa gặp được bị can”. Trong nền tư pháp văn minh, vấn đề bảo đảm bí mật thông tin cuộc trao đổi, gặp gỡ của luật sư và người bị buộc tội được tôn trọng một cách cực kỳ nghiêm túc. Hơn nữa, pháp luật các nước có nền tư pháp phát triển cho phép người bào chữa không phải chịu bất kỳ rào cản nào trong gặp gỡ với người bị buộc tội. Nhờ đó mà quá trình bào chữa của luật sư được thuận lợi, đảo bảo tính khách quan, thượng tôn pháp luật, làm sáng tỏ bản chất thực sự của vụ án, tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.

Tuy nhiên tại Thông tư liên tịch số 01/2018-TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23/01/2018 quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ sở tạm giữ, tạm giam với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát quản lý thi hành tạm giữ tạm giam lại quy định:

“Điều 10. Phối hợp giải quyết cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam gặp người bào chữa

1. Việc phối hợp, tổ chức cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam gặp người bào chữa thực hiện theo quy định tại Điều 80 của Bộ luật Tố tụng hình sựvà Điều 22, Điều 34 của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam.

2. Khi nhận được văn bản thông báo người bào chữa cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam của cơ quan đang thụ lý vụ án thì cơ sở giam giữ tổ chức cho người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật.

3. Trường hợp cần phải giám sát cuộc gặp thì Thủ trưởng, người có thẩm quyền của cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát. Nếu người bị tạm giữ, người bị tạm giam, người bào chữa có hành vi vi phạm nội quy cơ sở giam giữ hoặc cản trở việc giải quyết vụ án thì người có thẩm quyền giám sát phải dừng ngay cuộc gặp và lập biên bản, báo cáo với Thủ trưởng cơ sở giam giữ và thông báo bằng văn bản cho cơ quan đang thụ lý vụ án biết để xử lý.

4. Trường hợp người bào chữa có yêu cầu gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam tại nơi khám bệnh, chữa bệnh ngoài cơ sở giam giữ thì cơ sở giam giữ trao đổi với bác sỹ Điều trị; trường hợp được sự đồng ý của bác sỹ Điều trị thì cơ sở giam giữ thông báo cho người bào chữa biết, đồng thời thông báo cho cơ quan đang thụ lý vụ án để có biện pháp phối hợp kịp thời. Người có thẩm quyền của cơ sở giam giữ phải quản lý, giám sát chặt chẽ không để người bào chữa đưa, chuyển đồ vật cấm cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam hoặc có vi phạm khác về việc thăm gặp, gây cản trở việc giải quyết vụ án.”

Khoản 3 Điều 10 của Thông tư đặt ra một quy định tùy nghi hết sức vô lý và sai lệch. Trong quá trình gặp gỡ người bị buộc tội, người bào chữa phải được biết rõ những tình tiết của vụ án (nếu người bị buộc tội thật sự thực hiện hành vi phạm tội) nhằm xác định rõ bản chất của vụ án, làm rõ những dấu hiệu bức cung, dùng nhục hình, mớm cung… và để góp phần thu thập chứng cứ làm căn cứ giải quyết đúng đắn vụ việc. Việc đặt ra quy định trên là nhằm cản trở quá trình luật sư tiếp xúc và làm việc với thân chủ, mà trong thực tế việc gặp gỡ giữa người bị buộc tội và người bào chữa đã và đang bị gây khó khăn rất nhiều từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Tại sao lại quy định giám sát chặt chẽ đến mức mà đặt ra quy định trong bất kỳ trường hợp nào mà phía bên các cơ quan tiến hành tiến hành tố tụng cho rằng cần giám sát thì cũng có quyền giám sát, và có quyền dừng ngay việc gặp và lập biên bản xử lý. Rõ ràng là vi phạm vào Điều 11 của Tuyên ngôn nhân quyền Liên hợp quốc và trái với tinh thần của Hiến pháp 2013, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Nguyên tắc tranh tụng được thể hiện tại Điều 26 như sau:

“Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.”

Để đảm bảo nguyên tắc tranh tụng được áp dụng hiệu quả trên thực tế, bên cạnh việc BLTTHS vẫn quy định quyền thu thập, đánh giá chứng cứ cho các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng buộc tội là chủ yếu như Cơ quan điều tra hay Viện kiểm sát thì Điều 26 cũng đã lần đầu tiên quy định bị can, bị cáo, người bào chữa có quyền đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ do cơ quan tố tụng thu thập và yêu cầu Tòa án thu thập, bổ sung chứng cứ nếu đã yêu cầu ở giai đoạn điều tra, truy tố mà không được chấp nhận. Việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng có nghĩa là sự đối kháng nhau của các chủ thể có các chức năng khác nhau trong tố tụng. Chính vì vậy, trong tranh tụng không thể chỉ cho phép một chủ thể được đơn phương, độc quyền trong việc thu thập và đánh giá chứng cứ. Và cũng không cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng cản trở bên bị buộc tội, người bào chữa gặp gỡ, thu thập chứng cứ. Điều này là sự bảo đảm cho quá trình tranh tụng được bình đẳng và hiệu quả cao hơn. Vấn đề này đã được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cụ thể hóa hơn trong các quy định về: quyền và nghĩa vụ của bị can (Điều 60), quyền và nghĩa vụ của bị cáo (Điều 61), quyền và nghĩa vụ của người bào chữa (Điều 73)…

“Hàng ngày, các luật sư chúng tôi đang bị cản trở gây lên nhiều hệ lụy và bức xúc khi nội dung của Thông tư nói trên đang là cơ sở để các cơ sở tạm giam, tạm giữ và các cơ quan tiến hành tố tụng tiếp tục “hành” luật sư” – Trích đơn kiến nghị của Luật sư Hoàng Văn Hướng về Thông tư Thông tư liên tịch số 01/2018-TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 23/01/2018.

Chúng tôi là những người hành nghề luật sư với tư cách là người bào chữa trong tố tụng hình sự, hết sức trân trọng và đón nhận tinh thần tiến bộ, nhân văn của Hiến pháp 2013 và tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ chính trị về cải cách tư pháp hướng đến đảm bảo công lý, đảm bảo quyền con người, quyền và tự do hợp pháp của công dân hướng đến mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Quy định của Thông tư là trái với tinh thần nêu trên, là bước đi thụt lùi trong công tác cải cách tư pháp, gây bức xúc trong cộng đồng những người hành nghề luật sư, đặc biệt là những luật sư hành nghề tố tụng hình sự chuyên nghiệp. Vì một nền tư pháp tiến bộ, minh bạch, tránh bỏ lọt tội phạm, tránh làm oan người vô tội, chúng tôi khẩn thiết đề nghị Liên đoàn Luật sư việt Nam, Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội và các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến vấn đề này xem xét, hủy bỏ, sửa đổi và hướng dẫn làm rõ để tránh tình trạng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, quyền bào chữa của luật sư.

Mọi vấn đề thắc mắc liên hệ hệ tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.8698 để được Luật sư TGS Law hỗ trợ và giải đáp chi tiết

>>Xem thêm: TGS LawFirm góp ý dự thảo Nghị định về họ, hụi, biêu, phường

call-to-like

Đội ngũ luật sư đất đai – Hãng Luật TGS LAWFIRM

lstuan

 

Luật sư – Nguyễn Văn Tuấn – Giám Đốc Công ty Luật TGS

Ông là một luật sư giỏi có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đất đai. Luật sư đã tham gia tranh tụng nhiều vụ án tranh chấp đất đai, vụ án hình sự, kinh tế, thương mại,.. trên toàn quốc.

lshunga

 

Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Giám Đốc Công ty Luật TGS

Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng là một luật sư giỏi, đã từng công tác tại Công ty Luật TNHH NHB và nhiều công ty luật có thương hiệu khác, với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Đất đai, hình sự, dân sự.

lshungb

 

Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Luật sư Công ty Luật TGS

Luật sư Đức Hùng từng công tác tại nhiều tổ chức hành nghề luật sư uy tín, có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tranh tụng hình sự, đất đai, tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình.

lsson

 

Luật sư Hà Huy Sơn – Luật sư Công ty Luật TGS

Là một luật sư giỏi trong lĩnh vực hình sự. Với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Hình Sự, luật sư Hà Huy Sơn đã gây dựng được cho mình thương hiệu riêng và sự uy tín vững chắc đối với khách hàng.

tu van
ảnh đại diện luật sư tuấn

Hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn miễn phí

  • Luật Sư - Văn Phòng Luật TGS Law
  • Địa chỉ: Số 34, Ngõ 187 Trung Kính, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội.
  • Điện thoại: 0984.769.278
  • Email: contact.tgslaw@gmail.com
  • Hotline: 0985.928.544 - Luật Sư Nguyễn Văn Tuấn

Hoặc Bạn Có Thể Gửi Nội Dung Đăng Ký Tư Vấn Miễn Phí Qua Biểu Mẫu Dưới Đây Chúng Tôi/Luật Sư Sẽ Liên Hệ Lại Ngay!