Luật bảo vệ phụ nữ và trẻ em
Nội dung bài viết
Trong những năm trở lại đây, những vụ bạo lực, xâm hại phụ nữ và trẻ em ngày càng có chiều hướng gia tăng với tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Theo thống kê năm 2018, có 8.056 phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình và 1.356 trẻ em bị xâm hại được phát hiện, trung bình mỗi ngày có 4,6 trẻ bị xâm hại tình dục (trước đó chỉ 3). Trong 5 năm từ 2012-2016, cả nước phát hiện trên 8.200 vụ xâm hại trẻ em với gần 10.000 nạn nhân, tăng 258 nạn nhân so với 5 năm trước, trong đó, số vụ bị xâm hại tình dục chiếm tới 65% với mức độ ngày càng nghiêm trọng. Do đó, các quy định pháp luật chặt chẽ nhằm bảo vệ phụ nữ và trẻ em là điều cần thiết. Vậy pháp luật đã có những quy định như thế nào để bảo vệ được quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em nói chung. Bài viết dưới đây công ty Luật TGS chúng tôi xin trình bày khái quát vấn đề này.
I. Thứ nhất về những quy định của pháp luật về vấn đề bảo vệ phụ nữ
Quy định về bảo vệ phụ nữ qua các bản Hiến pháp:
Trong các bản Hiến pháp của nước Việt Nam từ trước tới nay dù ít hay nhiều cũng đều đề cấp đến những vấn đề về quyền của người phụ nữ và các quy định bảo vệ cho họ. Đặc biệt, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới 2013 có những sửa đổi, bổ sung và phát triển thể hiện tầm quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó có cả quyền của phụ nữ.
Điều 26, Hiến pháp 2013 quy định:
“Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”.
Như vậy, quyền của phụ nữ Việt Nam ngày càng được phát triển qua các bản Hiến pháp, các quyền cơ bản đó bao gồm:
(1) Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm;
(2) Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình;
(3) Có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình;
(4) Quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác;
(5) Quyền có nơi ở hợp pháp; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở;
(6) Quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước;
(7) Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;…
Quy định về bảo vệ phụ nữ qua các văn bản pháp luật:
Luật Bình đẳng giới 2006: Điều 7 quy định những Chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới:
“Bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển. Bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình”.
Theo đó, trong mọi lĩnh vực thì vị thế của người nam và người nữ là ngang nhau, mọi người có quyền bình đẳng và Nhà nước có vai trò đảm bảo việc đó được thực thi.
Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Pháp luật hôn nhân và gia đình khẳng định nguyên tắc vợ, chồng bình đẳng. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của mình; vợ chồng có nghĩa vụ cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; có nghĩa vụ sống chung với nhau…
Bộ luật Lao động 2012: Trong toàn bộ Bộ luật thì nhà làm luật có quy định hẳn một chương riêng đối với lao động là phụ nữ. Theo đó, Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền làm việc bình đẳng của lao động nữ; khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà; có biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hoà cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình. Đặc biệt, Bộ luật Lao động 2012 quy định tăng thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ từ 4 tháng lên thành 6 tháng.
Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành đảm bảo phụ nữ được hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp, mất sức lao động. Lao động nữ được hưởng các chế độ khám thai
(nghỉ việc có hưởng lương trợ cấp); nghỉ việc hưởng lương trợ cấp sinh đẻ bằng 100% tiền lương; dưỡng sức sau khi sinh nếu sức khỏe yếu.
Đặc biệt, Bộ luật Hình sự hiện hành còn thể hiện sự khoan hồng, tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong xử lý tội phạm là nữ: người phạm tội là phụ nữ có thai được quy định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử; không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi…
II. Thứ hai về những quy định của pháp luật về vấn đề bảo vệ trẻ em
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em vào ngày 20/02/1990. Ở Việt Nam, quyền trẻ em đã được hiến định từ Hiến pháp năm 1946: Điều 14 quy định: “Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng”. Điều 15 quy định:
“Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước”.
Cho đến Hiến pháp 2013, quyền trẻ em được quy định trực tiếp tại khoản 1, Điều 37:
“Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.
Nội dung này được quy định chi tiết hơn Hiến pháp 1992 nhằm đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho trẻ em vì đây là thế hệ tương lai của đất nước. Vấn đề bảo vệ trẻ em cũng được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật để cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp mà tập trung là Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và Luật Trẻ em 2016.
Luật Trẻ em 2016 được ban hành thay thế cho Luật Bảo về, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 với nhiều quy định chặt chẽ hơn trong vấn đề bảo vệ trẻ em. Điều 6 Luật Trẻ em 2016 nghiêm cấm các hành vi sau: Bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán bắt cóc, chiếm đoạt trẻ em; xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em… Theo quy định tại Khoản 2 Điều 185 Bộ luật Hình sự 2015 thì:
Người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể con, cháu là người dưới 16 tuổi thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015, người cố ý gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của trẻ em tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về nghĩa vụ và quyền cha mẹ nuôi dưỡng con cái, quyền thương yêu; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. Trong trường hợp bị Tòa án quyết định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên, thì trong thời gian thi hành quyết định của Tòa án, trẻ em được giúp đỡ, bảo vệ lợi ích; Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con, thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Các quy định chặt chẽ trong vấn đề bảo vệ phụ nữa và trẻ em là điều kiện cần, còn việc thực thi, áp dụng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền như thế nào mới là điều kiện đủ giúp cho việc bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của tầng lớp yếu thế hơn trong xã hội đạt được hiệu quả tốt nhất. Đặc biệt trong vấn đề ngăn chặn, giảm thiểu bạo hành, xâm hại ở phụ nữ và trẻ em.
Đội ngũ luật sư bào chữa – Công ty Luật TGS
Luật sư – Nguyễn Văn Tuấn – Giám Đốc Công ty Luật TGS
Ông là một luật sư giỏi có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đất đai. Luật sư đã tham gia tranh tụng nhiều vụ án tranh chấp đất đai, vụ án hình sự, kinh tế, thương mại,.. trên toàn quốc.
Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Giám Đốc Công ty Luật TGS
Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng là một luật sư giỏi, đã từng công tác tại Công ty Luật TNHH NHB và nhiều công ty luật có thương hiệu khác, với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Đất đai, hình sự, dân sự.
Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Luật sư Công ty Luật TGS
Luật sư Đức Hùng từng công tác tại nhiều tổ chức hành nghề luật sư uy tín, có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tranh tụng hình sự, đất đai, tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình.
Luật sư Hà Huy Sơn – Luật sư Công ty Luật TGS
Là một luật sư giỏi trong lĩnh vực hình sự. Với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Hình Sự, luật sư Hà Huy Sơn đã gây dựng được cho mình thương hiệu riêng và sự uy tín vững chắc đối với khách hàng.
Hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn miễn phí
- Luật Sư - Văn Phòng Luật TGS Law
- Địa chỉ: Số 10, ngõ 76 Duy Tân, Dịch Vọng Hậu, Cầu Giấy, Hà Nội.
- Điện thoại: 0984.769.278
- Email: info.tgslaw@gmail.com
- Hotline: 0985.928.544 - Luật Sư Nguyễn Văn Tuấn
Hoặc Bạn Có Thể Gửi Nội Dung Đăng Ký Tư Vấn Miễn Phí Qua Biểu Mẫu Dưới Đây Chúng Tôi/Luật Sư Sẽ Liên Hệ Lại Ngay!