Nếu bị tâm thần, nghi phạm sát hại nữ lao công có bị xử lý hình sự?
Liên quan đến vụ việc nam thanh niên dùng gạch sát hại nữ lao công tại địa bàn phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy (TP Hà Nội), nếu đối tượng phạm tội có dấu hiệu của bệnh tâm thần thì trường hợp này cơ quan có thẩm quyền xử lý như thế nào ạ?
Theo Luật sư, cần phải làm gì để răn đe, giáo dục phòng tránh sử dụng bạo lực của giới trẻ hiện nay ạ?
Thạc sĩ. Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Giám đốc Công ty Luật TNHH TGS – Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội
Trước hết, có thể thấy đây là vụ việc hết sức đau lòng, nạn nhân đã bị sát hại một cách dã man, khiến chúng ta không khỏi bàng hoàng và xót xa. Hành vi của đối tượng là việc tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác, đây là hành vi khách quan của “tội giết người” theo quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (“Bộ luật hình sự”). Do đó, theo quy định tại Điều 143 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2013 thì Cơ quan điều tra sẽ phải khởi tố vụ án, tiến hành điều tra, làm rõ sự thật khách quan của vụ án, cũng trách nhiệm pháp lý của đối tượng đã gây án.
Tuy nhiên, theo thông tin ban đầu thì giữa đối tượng và nạn nhân không có quen biết và không có mâu thuân với nhau, khi gây án thì đối tượng có biểu hiện mắc bệnh tâm thần. Do đó, theo quy định tại Khoản 1 Điều 206 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì Cơ quan điều tra bắt buộc phải ra quyết định trưng cầu giám định về tình trạng tâm thần của đối tượng, để xác định trước, trong và sau thời điểm sát hại nạn nhân thì đối tượng có bị mắc bệnh tâm thần hay không? Nếu có thì là bệnh gì và mức độ ảnh hưởng của bệnh lý đó đến khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của đối tượng? Qua đó, để xác định tại thời điểm sát hại nạn nhân thì đối tượng có năng lực trách nhiệm hình sự hay không? cũng như hiện tại thì đối tượng có đủ khả năng làm việc với các Cơ quan tiến hành tố tụng hay không?
Căn cứ vào nội dung Kết luận giám định pháp y về tâm thần của Cơ quan giám định thì các Cơ quan tiến hành tố tụng sẽ có các hướng giải quyết như sau:
Trường hợp thứ nhất: Trong trường hợp đối tượng không bị mắc bệnh tâm thần, có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình thì đối tượng được coi là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, và bị coi là có lỗi trong khi thưc hiện hành vi phạm tội. Do đó, Cơ quan điều tra sẽ tiến hành khởi tố bị can và điều tra, làm rõ trách nhiệm hình sự của đối tượng theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, đối tượng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về “tội giết người”, với tình tiết định khung tăng nặng là phạm tội “có tính chất côn đồ”, với loại và mức hình phạt là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Trường hợp thứ hai: Nếu đối tượng có bị mắc bệnh tâm thần nhưng chưa đến mức bị mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi. Tức là, dù đối tượng có bệnh lý tâm thần và bệnh lý này có thể có những ảnh hưởng nhất định, làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của đối tượng. Tuy nhiên, đối tượng vẫn có khả năng nhận thức, suy xét, đánh giá và lựa chọn, điều khiển hành vi của mình khi thực hiện tội phạm, thì người này vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về “tội giết người” như đã nêu trên. Tuy nhiên trong trường hợp này, đối tượng sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đó là: “Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình” theo quy định tại Điểm q Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Trường hợp thứ ba: Nếu trong khi sát hại nạn nhân mà đối tượng bị mắc bệnh tâm thần, dẫn đến không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, thì đối tượng sẽ được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự. Vì vậy, theo quy định tại Điều 8 và Điều 21 Bộ luật hình sự thì hành vi của đối tượng sẽ không bị coi là tội phạm và đối tượng sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tại Điều 21 Bộ luật hình sự quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.”. Do đó, theo quy định tại Điều 230 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Cơ quan điều tra sẽ ra quyết định đình chỉ điều tra. Tuy nhiên, đối tượng vẫn có thể bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh theo quy định tại Điều 49 Bộ luật hình sự.
Trong trường hợp này, người giám hộ (nếu có) của đối tượng sẽ có trách nhiệm thực hiện việc bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân theo quy định tại Điều 586 Bộ luật dân sự năm 2015, theo đó: “Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”.”
Hiện nay, phần lớn những người mắc bệnh tâm thần đang do gia đình tự giám sát và quản lý. Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác nhau đã có nhiều người bệnh không có được sự chăm sóc, quản lý và chữa trị đầy đủ, thậm chí có người còn giấu bệnh hoặc đi lang thang, rất dễ dẫn đến việc họ thực hiện các hành vi gây nguy hiểm, đe dọa đến tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác, làm mất trật tự và an toàn xã hội. Do ảnh hưởng của bệnh lý nên những người mắc bệnh tâm thần có thể thực hiện những việc làm hết sức tàn ác, man rợ, dẫn đến những hậu quả rất nghiêm trọng, gây ra tâm lý bất an, lo lắng trong xã hội.
Chính vì vậy, chúng ta cần phải có những giải pháp phòng ngừa đồng bộ và hiệu quả, đặc biệt là công tác rà soát, nắm địa bàn và lập danh sách người bệnh một cách đầy đủ, kịp thời có những biện pháp quản lý phù hợp và thường xuyên, tránh bỏ lọt người bệnh ngoài xã hội; cũng như có các cơ chế, cách thức phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, lực lượng y tế cơ sở và chính quyền địa phương, để đảm bảo tốt nhất quyền lợi của những người bệnh tâm thần, cũng như sự an toàn cho cộng đồng. Đồng thời, chúng ta cũng phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức về bệnh tâm thần, từ cách nhận biết đến các phương pháp chăm sóc, chữa trị, quản lý người bệnh, phòng ngừa họ thực hiện các hành vi gây hại cho gia đình và cộng đồng.
Ý kiến của Thạc sỹ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Giám Đốc Hãng Luật TGS đã được đăng tải trên Tạp chí Luật sư Việt Nam (Cơ quan Ngôn Luận của Liên Đoàn Luật Sư Việt Nam):
https://lsvn.vn/nhung-van-de-phap-ly-lien-quan-den-vu-an-nu-cong-nhan-ve-sinh-moi-truong-bi-sat-hai-tai-cau-giay1617941863.html
Đội ngũ luật sư bào chữa – Công ty Luật TGS
Luật sư – Nguyễn Văn Tuấn – Giám Đốc Công ty Luật TGS
Ông là một luật sư giỏi có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đất đai. Luật sư đã tham gia tranh tụng nhiều vụ án tranh chấp đất đai, vụ án hình sự, kinh tế, thương mại,.. trên toàn quốc.
Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Giám Đốc Công ty Luật TGS
Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng là một luật sư giỏi, đã từng công tác tại Công ty Luật TNHH NHB và nhiều công ty luật có thương hiệu khác, với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Đất đai, hình sự, dân sự.
Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Luật sư Công ty Luật TGS
Luật sư Đức Hùng từng công tác tại nhiều tổ chức hành nghề luật sư uy tín, có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tranh tụng hình sự, đất đai, tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình.
Luật sư Hà Huy Sơn – Luật sư Công ty Luật TGS
Là một luật sư giỏi trong lĩnh vực hình sự. Với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Hình Sự, luật sư Hà Huy Sơn đã gây dựng được cho mình thương hiệu riêng và sự uy tín vững chắc đối với khách hàng.
Hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn miễn phí
- Luật Sư - Văn Phòng Luật TGS Law
- Địa chỉ: Số 10, ngõ 76 Duy Tân, Dịch Vọng Hậu, Cầu Giấy, Hà Nội.
- Điện thoại: 0984.769.278
- Email: info.tgslaw@gmail.com
- Hotline: 0985.928.544 - Luật Sư Nguyễn Văn Tuấn
Hoặc Bạn Có Thể Gửi Nội Dung Đăng Ký Tư Vấn Miễn Phí Qua Biểu Mẫu Dưới Đây Chúng Tôi/Luật Sư Sẽ Liên Hệ Lại Ngay!