Cần “liều thuốc mạnh” với tội phạm đấu giá quyền sử dụng đất

Khoản 1 Điều 108 Luật Đất đai 2013 quy định căn cứ tính tiền sử dụng đất (a) Diện tích đất được giao, được chuyển mục đích sử dụng, được công nhận quyền sử dụng đất; b) Mục đích sử dụng đất;). Theo quy định hiện hành, khi xác định giá đất sẽ tính trên tổng diện tích cả khu (bao gồm cả diện tích sử dụng chung như đường, công viên cây xanh…) hay chỉ tính riêng phần nhà đầu tư được sử dụng (cụ thể từng phần diện tích đất ở, phần diện tích đất thương mại – dịch vụ)?

Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó giám đốc Công Ty Luật TNHH TGS, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội

Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định tại Luật Đất đai và được xác định trên các căn cứ sau: “Diện tích đất được giao, được chuyển mục đích sử dụng, được công nhận quyền sử dụng đất; Mục đích sử dụng đất; Giá đất tính thu tiền sử dụng đất”. Cụ thể:

  1. Giá đất theo Bảng giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) quy định áp dụng trong trường hợp hộ gia đình, cá nhân được công nhận quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất đối với diện tích đất ở trong hạn mức.

Việc xác định diện tích đất trong hạn mức tại Điểm này phải đảm bảo nguyên tắc mỗi hộ gia đình (bao gồm cả hộ gia đình hình thành do tách hộ theo quy định của pháp luật), cá nhân chỉ được xác định diện tích đất trong hạn mức giao đất ở hoặc hạn mức công nhận đất ở một lần và trong phạm vi một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được thực hiện theo quy định tại Điều 7 Thông tư 76/2014/TT-BTC ngày 26/6/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định 45/2014/NĐ-CP, ngày 14/5/2014 của Chính phủ

Trường hợp hộ gia đình, cá nhân có nhiều thửa đất trong phạm vi một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì hộ gia đình, cá nhân đó được cộng dồn diện tích đất của các thửa đất để xác định diện tích đất trong hạn mức giao đất ở hoặc hạn mức công nhận đất ở nhưng tổng diện tích đất lựa chọn không vượt quá hạn mức giao đất ở hoặc hạn mức công nhận đất ở tại địa phương nơi lựa chọn.

Hộ gia đình, cá nhân chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, chính xác của việc kê khai diện tích thửa đất trong hạn mức giao đất ở hoặc hạn mức công nhận đất ở được áp dụng tính thu tiền sử dụng đất; nếu bị phát hiện kê khai gian lận sẽ bị truy thu nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai và bị xử phạt theo quy định của pháp luật về thuế.

  1. Giá đất cụ thể được xác định theo các phương pháp so sánh trực tiếp, chiết trừ, thu nhập, thặng dư quy định tại Nghị định của Chính phủ về giá đất áp dụng trong các trường hợp sau:
  • Xác định tiền sử dụng đất đối với trường hợp diện tích tính thu tiền sử dụng đất của thửa đất hoặc khu đất có giá trị (tính theo giá đất trong Bảng giá đất) từ 30 tỷ đồng trở lên đối với các thành phố trực thuộc Trung ương; từ 10 tỷ đồng trở lên đối với các tỉnh miền núi, vùng cao; từ 20 tỷ đồng trở lên đối với các tỉnh còn lại trong các trường hợp: Tổ chức được giao đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất; hộ gia đình, cá nhân được giao đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất; được công nhận quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất đối với diện tích đất ở vượt hạn mức.
  • Xác định giá khởi điểm đấu giá quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định tại Khoản 3 Điều 1 Thông tư 332/2016/TT-BTC, ngày 26/12/2016 sửa đổi Thông tư 76/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định 45/2014/NĐ-CP, ngày 14/5/2014 của Chính phủ.
  1. Giá đất cụ thể được xác định theo phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất áp dụng đối với trường hợp diện tích tính thu tiền sử dụng đất của thửa đất hoặc khu đất có giá trị (tính theo giá đất trong Bảng giá đất) dưới 30 tỷ đồng đối với các thành phố trực thuộc Trung ương; dưới 10 tỷ đồng đối với các tỉnh miền núi, vùng cao; dưới 20 tỷ đồng đối với các tỉnh còn lại áp dụng để xác định tiền sử dụng đất trong các trường hợp:
  • Tổ chức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;
  • Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất;
  • Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với diện tích đất ở vượt hạn mức.

Hàng năm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định hệ số điều chỉnh giá đất để áp dụng cho các trường hợp quy định tại điểm c khoản 3 Nghị định 45/2014/NĐ-CP, ngày 14/5/2014 của Chính phủ được hướng dẫn bởi Điều 3 Thông tư 76/2014/TT-BTC ngày 26/6/2014 của Bộ Tài chính.

Như vậy, theo quy định pháp luật hiện hành được quy định tại các điểm a, b, Khoản 1 Điều 108 Luật Đất đai 2013 thì việc xác định giá đất sẽ tính dựa trên cơ sở “Diện tích đất được giao, được chuyển mục đích sử dụng, được công nhận quyền sử dụng đất; Mục đích sử dụng đất thì khi xác định giá đất sẽ tính trên căn cứ như: “Diện tích đất cho thuê; Thời hạn cho thuê đất; Đơn giá thuê đất; trường hợp đấu giá quyền thuê đất thì giá đất thuê là đơn giá trúng đấu giá; Hình thức Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê” theo quy định tại khoản 2 Điều 108 Luật đất đai năm 2013, được hướng dẫn bởi Điều 3 Nghị định 46/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ. Do đó, giá đất sẽ được tính trên phần diện tích nhà đầu tư được sử dụng tùy thuộc vào mục đích sử dụng đất.

Bảng giá đất do UBND tỉnh (thành phố) ban hành là một căn cứ trong quá trình xác định giá trị đất (Thông tư 332/2016/TT-BTC, xác định giá trị trên, dưới 30 tỷ, 10 tỷ….). Tuy nhiên, nhiều khu đất đấu giá là khu mới được quy hoạch, chưa có trong bảng giá đất. Như vậy sẽ dựa vào căn cứ nào để xác định giá trị khu đất?

Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó giám đốc Công Ty Luật TNHH TGS, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội

Bảng giá đất là giá đất theo từng vị trí được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công bố mỗi kỳ 05 năm trên cơ sở khung giá đất, nguyên tắc, phương pháp định giá đất và giá đất thị trường tại thời điểm quyết định để làm căn cứ tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trong trường hợp đấu giá quyền sử đất là giá trúng đấu giá, đơn giá trúng đấu giá đối với đất thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất thì tiền sử dụng đất phải nộp là số tiền trúng đấu giá. Tuy nhiên, nhiều khu đất đấu giá là khu mới được quy hoạch, chưa có trong bảng giá đất.

Do đó, để xác định được xác định theo các phương pháp so sánh trực tiếp, chiết trừ, thu nhập, thặng dư quy định tại Điều 4 Nghị định 44/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 quy định về giá đất của Chính phủ, được hướng dẫn bởi các Điều 4, 5, 6, 7 Thông tư 36/2014/TT-BTNMT quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành ngày 30/6/2014.

Như vậy, trong trường hợp khu đất đấu giá là khu mới được quy hoạch, chưa có trong bảng giá đất thì sẽ dựa vào các phương pháp nêu trên để xác định là căn cứ xác định giá đất làm căn cứ đấu giá theo quy định của pháp luật.

Điều 112 Luật đất đai quy định: Việc định giá đất phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây: c) Phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất; Điều 15 Nghị định 44/2014. Xác định giá đất cụ thể: 1. Căn cứ nguyên tắc định giá đất quy định tại Điều 112 của Luật Đất đai, phương pháp định giá đất quy định tại các Khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 4 của Nghị định này và kết quả tổng hợp, phân tích thông tin về thửa đất, giá đất thị trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định cụ thể để đấu giá nói riêng, xác định giá trị khu đất để thu tiền sử dụng đất nói chung ở nhiều địa phương thời gian qua xảy ra tình trạng giá xác định thấp hơn nhiều so với giá thị trường, dẫn đến nguy cơ thất thoát ngân sách nhà nước. Ý kiến của luật sư về vấn đề này? theo luật sư, đâu là nguyên nhân của tình trạng trên?

Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó giám đốc Công Ty Luật TNHH TGS, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội

Theo quy định của Luật đất đai năm 2013 và Nghị định 44/2014/NĐ-CP ngày 25/05/2014 của Chính phủ, hiện nay căn cứ để tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất thu tiền một lần cho cả thời gian thuê thì đều được xác định theo giá đất cụ thể. Để xác định được giá đất này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định dựa trên cơ sở điều tra, thu thập thông tin về thửa đất, giá đất thị trường, thông tin về giá đất trong cơ sở dữ liệu đất đai và áp dụng phương pháp định giá đất phù hợp. Tuy nhiên, hiện nay, ở nhiều địa phương trên cả nước cho thấy việc xác định giá đất cụ thể của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để tính giá khởi điểm đấu giá quyền sử dụng đất hay tính tiền sử dụng đất,… thì đều có xu hướng phổ biến với mức giá thấp hơn giá thị trường. Điều này đã tạo ra nhiều bất cập, làm thất thoát nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Cụ thể:

Việc quyết định đơn giá đất của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chưa sát với thị trường sẽ tạo khoảng chênh lệch lớn cho một nhóm các đối tượng hưởng lợi, ví dụ như khu đất A2, A3 thuộc dự án Khu tái định cư đầu tuyến Sơn Trà – Điện Ngọc được Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết định đơn giá là 2.570.000 đồng/m2 tương đương 88 tỷ đồng (lô A2: khoảng 25 tỷ đồng, lô A3 khoảng 63 tỷ đồng), nhưng ngay sau 32 ngày người được giao đất đã chuyển nhượng lại lô A2 với giá hơn 133 tỷ đồng, chênh lệch hơn 107 tỷ đồng. Điều này đã làm thất thoát ngân sách nhà nước lên đến hơn 100 tỷ đồng. Đồng thời, việc xác định giá đất thấp hơn giá thị trường còn gây thiệt hại cho người dân và đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra tranh chấp, khiếu kiện kéo dài của người dân trong những năm gần đây.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên là do người sử dụng đất không biết được giá đất, cơ quan chịu trách nhiệm giá đất không có bộ phận thẩm định chuyên nghiệp, các đơn vị thẩm định giá đất chưa đáp ứng được yêu cầu nên việc tổ chức thực hiện công tác định giá đất cụ thể trong nhiều trường hợp còn chậm, kéo dài từ 1 – 3 năm, không đáp ứng kịp thời tiến độ tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tính bồi thường. Từ đó, có thể dẫn đến quy trình hành chính xác định giá đất thiếu sự minh bạch, có sơ hở tạo ra cơ chế “xin – cho”, làm thất thu ngân sách Nhà nước và ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường kinh doanh.

Bên cạnh đó, quy trình định giá đất thủ công hiện nay còn khá lủng củng. Cụ thể: Sở Tài nguyên Môi trường lập kế hoạch định giá đất cụ thể và tổ chức thực hiện việc xác định giá đất cụ thể. Sở Tài chính làm thường trực Hội đồng thẩm định giá đất cấp tỉnh để thẩm định phương án giá đất. Ngoài ra, các phương pháp định giá đất đang được áp dụng cũng có sự chênh lệch rất lớn về kết quả, đặc biệt đối với các loại đất có giá trị thương mại cao như đất ở, đất thương mại, dịch vụ tại khu vực đô thị hoặc các khu vực đang được đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng đến kết quả công tác xác định giá đất, thẩm định giá đất thiếu tính chính xác, thiếu độ tin cậy, dễ dẫn đến vận dụng tùy tiện và phát sinh tiêu cực.

Như vậy, Nhà nước cần chỉ đạo các cơ quan xác định cơ chế giá đất và thực hiện nghĩa vụ tài chính đất đai theo hướng minh bạch. Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền ban hành khung pháp lý về giá đất cho phù hợp, trong đó hoàn thiện bảng giá đất với các hệ số phù hợp được công bố công khai làm cơ sở để xác định giá đất cụ thể phù hợp với tình trạng diễn biến về giá đất trên thị trường và phù hợp với thực tế tình hình phát triển của địa phương.

Việc đấu giá quyền sử dụng đất nhằm tăng tính cạnh tranh, minh bạch, giúp ngân sách nhà nước có nguồn thu hiệu quả nhất. Tuy nhiên, thực tế vẫn xảy ra tình trạng thông đồng, móc ngoặc, dìm giá. Có hiện tượng, trong lần đấu giá, chỉ có 1 người trúng đến vài chục hoặc toàn bộ lô đất được đưa ra đấu giá (dù là đấu giá đất theo từng lô). Luật sư có ý kiến và nhận định như thế nào về vấn đề này? Có hay không việc bất thường khi trúng đấu giá như trên?

Luật sư Nguyễn Văn Tuấn – Giám đốc Công Ty Luật TNHH TGS, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội

Việc đấu giá quyền sử dụng đất hiện nay vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Một trong số đó là tình trạng “bao che”, “thông đồng, dìm giá” giữa người tham gia đấu giá, người có tài sản, tổ chức đấu giá tài sản. Đặc biệt tài sản đấu giá ở Việt Nam hầu hết là tài sản công, do đó dễ dẫn đến nguy cơ trục lợi. Tình trạng này diễn ra không chỉ gây thất thoát đối với tài sản, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, trật tự tại địa phương. Đa số hành vi “thông đồng, dìm giá” không diễn ra trực tiếp tại cuộc đấu giá mà diễn ra trước khi tổ chức đấu giá với các thủ đoạn, tính chất hết sức tinh vi và có xu hướng ngày càng phức tạp. Tuy nhiên, đấu giá viên và cơ quan quản lý nhà nước không thể phát hiện bằng các biện pháp thông thường mà phải đòi hỏi nghiệp vụ chuyên ngành như giám định chữ ký, ghi âm, điều tra, cùng với đó là sự vào cuộc, điều tra, phát hiện của cơ quan công an.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên phải kể đến như: Việc hạn chế ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đấu giá tài sản; đội ngũ làm công tác thanh tra trong lĩnh vực đấu giá tài sản không đủ để có thể đáp ứng được khối lượng công việc phức tạp; kinh nghiệm, kỹ năng thanh tra còn thiếu sót;… Ngoài ra, việc tổ chức thi hành và áp dụng pháp luật trong hoạt động đấu giá còn chức nghiêm; trách nhiệm quản lý tài sản trong quá trình xử lý tài sản, nhất là đối với tài sản công của một số cơ quan, tổ chức, địa phương chưa được quan tâm, nhận thức đúng và đầy đủ.

Từ thực tiễn nêu trên, cơ quan chức năng cần triển khai các giải pháp để kịp thời giải quyết tình trạng “bao che”,thông đồng, dìm giá” trong hoạt động đấu giá. Cụ thể, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật liên quan đến đấu giá tài sản đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật; tiếp tục nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề của đội ngũ đấu giá viên, đặc biệt cần ứng dụng mãnh mẽ công nghệ thông tin trong hoạt động đấu giá. Qua đó, góp phần tạo sự minh bạch trong hoạt động đấu giá, tránh thất thoát tài sản cũng như đảm bảo an ninh và trật tự an toàn xã hội.

Trường hợp người trúng đấu giá ngay sau khi trúng đấu giá đã “sang tay” cho người khác (hưởng chênh lệnh) có phù hợp với quy định của pháp luật? Luật sư có cảnh báo gì với vấn đề này?

Luật sư Nguyễn Văn Tuấn – Giám đốc Công Ty Luật TNHH TGS, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội

Theo quy định tại khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 thì người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện: Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật đất đai năm 2013; Đất không có tranh chấp; Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;Trong thời hạn sử dụng đất”. Do đó, chỉ khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất mới có các quyền như chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho…quyền sử dụng đất.

Như vậy, người trúng đấu giá đất sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mới có thể làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác. Vì vậy, trường hợp người trúng đấu giá ngay sau khi trúng đấu giá đã “sang tay” cho người khác (hưởng chênh lệnh) là không phù hợp với quy định của pháp luật.

Hiện nay, tình trạng người trúng đấu giá ngay sau khi trúng đấu giá đã “sang tay” cho người khác để hưởng chênh lệch diễn ra rất phổ biến, hay còn gọi với cái tên khác là “bán suất”. Tuy nhiên, tình huống này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với người mua. Vì vậy, người mua cần lưu ý các vấn đề sau đây:

Thứ nhất: Pháp luật đất đai hiện hành có quy định về điều kiện của tổ chức, cá nhân tham gia đấu giá quyền sử dụng đất, gồm: Thuộc đối tượng được Nhà nước giao đất, cho thuê đất theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Luật đất đai năm 2013; Phải bảo đảm các điều kiện để thực hiện dự án đầu tư theo quy định tại Điều 58 của Luật luật đất đai năm 2013 đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư.

Thứ hai, Trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất đấu giá không đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật đất đai, không thực hiện được các quyền của người sử dụng đất. Do đó, nếu có xảy ra tranh chấp thì người mua sẽ không được pháp luật bảo vệ nên người mua cần phải cân nhắc thật kỹ trước khi thực hiện các giao dịch “sang tay” đất đấu giá để không bị ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của mình.

Quyết định phê duyệt giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất có giá trị trong bao lâu? (có trường hợp sau 12 tháng mới đấu giá thì có đảm bảo quy định không).

Luật sư Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc Công ty Luật TNHH TGS thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội

Hiện nay, có 03 mục đích để đấu giá quyền sử dụng đất được pháp luật đất đai quy định, bao gồm:

Đấu giá quyền sử dụng dung đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất

Theo khoản 2 Điều 2 Nghị định số 123/2017/NĐ-CP quy định về việc sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 4 của Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ thì quyết định phê duyệt giá khởi điểm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đơn vị được giao nhiệm vụ đấu giá quyền sử dụng đất tổ chức thực hiện đấu giá theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của Luật sư Nguyễn Văn Tuấn đã được đăng tải trên báo Pháp Luật số 799 tháng 10/2021

Theo đó, giá khởi điểm đấu giá quyền sử dụng đất do Uỷ ban bân dân cấp tỉnh phê duyệt sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quyết định đấu giá theo quy định của pháp luật về đất đai theo Bảng giá đất được xây dựng theo nguyên tắc định kỳ 05 năm một lần và công bố công khai vào ngày 01 tháng 01 của năm đầu kỳ. Do đó, trường hợp đã xác định giá khởi điểm nhưng sau 12 tháng mới đấu giá nhưng vẫn trong thời gian của một kỳ xác định Bảng giá đất thì giá khởi điểm vẫn đảm bảo quy định của pháp luật.

Đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất để cho thuê theo hình thức thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm.

Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định số 123/2017/NĐ-CP quy định về việc sửa đổi điểm a khoản 4, khoản 5 và khoản 6 Điều 4 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ thì giá đất cụ thể được xác định theo phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất quy định tại Nghị định của Chính phủ về giá đất được áp dụng để xác định giá khởi điểm trong đấu giá quyền sử dụng đất để cho thuê theo hình thức thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm. Hàng năm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định hệ số điều chỉnh giá đất để áp dụng đối với các trường hợp quy định tại khoản này.

Hệ số điều chỉnh giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành áp dụng từ ngày 01 tháng 01 hàng năm. Thời điểm khảo sát để xây dựng hệ số điều chỉnh giá đất được thực hiện từ ngày 01 tháng 10 hàng năm. Các chi phí liên quan đến việc xây dựng hệ số điều chỉnh giá đất để tính thu tiền thuê đất (bao gồm cả chi phí thuê tổ chức tư vấn trong trường hợp cần thiết) được chi từ ngân sách theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Việc lựa chọn tổ chức tư vấn khảo sát, xây dựng hệ số điều chỉnh giá đất được thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu. Trường hợp tại thời điểm xác định đơn giá thuê đất hoặc điều chỉnh đơn giá thuê đất mà Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chưa ban hành hệ số điều chỉnh giá đất theo quy định thì áp dụng hệ số điều chỉnh giá đất đã ban hành của năm trước đó để xác định số tiền thuê đất phải nộp và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm về việc thất thu ngân sách do chậm ban hành hệ số điều chỉnh giá đất (nếu có).

Theo quy định trên, giá khởi điểm đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất để cho thuê theo hình thức thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm được xác định theo phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất hằng năm do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định. Vì vậy, trường hợp đã xác định giá khởi điểm nhưng sau 12 tháng mới đấu giá mà thời điểm đó UBND cấp tỉnh đã ban hành hệ số điều chỉnh giá đất thì giá khởi điểm đó không đảm bảo quy định của pháp luật.

Đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất để cho thuê theo hình thức thuê đất trả tiền thuê đất một lần

Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định số 123/2017/NĐ-CP quy định về việc sửa đổi điểm khoản 6 Điều 4 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ thì giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất được tính theo giá đất trong Bảng giá đất nên trường hợp đã xác định giá khởi điểm nhưng sau 12 tháng mới đấu giá nhưng vẫn trong thời gian của một kỳ xác định Bảng giá đất thì giá khởi điểm vẫn đảm bảo quy định của pháp luật.

Như vậy, tuỳ theo mục đích đấu giá quyền sử dụng đất mà pháp luật quy định trình tự, thủ tục xác định về thời gian có giá trịn của Quyết định phê duyệt giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

»BÁO CHÍ ĐƯA TIN:

Báo Pháp Luật Việt Nam(Cơ quan của Bộ Tư Pháp) đăng tải ý kiến của Luật sư Nguyễn Văn Tuấn – Giám đốc Công ty TNHH TGS: https://baophapluat.vn/can-thuong-phuong-bao-kiem-tri-toi-pham-trong-dau-gia-quyen-su-dung-dat-post415857.html

call-to-like

Đội ngũ luật sư đất đai – Hãng Luật TGS LAWFIRM

lstuan

 

Luật sư – Nguyễn Văn Tuấn – Giám Đốc Công ty Luật TGS

Ông là một luật sư giỏi có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đất đai. Luật sư đã tham gia tranh tụng nhiều vụ án tranh chấp đất đai, vụ án hình sự, kinh tế, thương mại,.. trên toàn quốc.

lshunga

 

Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Giám Đốc Công ty Luật TGS

Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng là một luật sư giỏi, đã từng công tác tại Công ty Luật TNHH NHB và nhiều công ty luật có thương hiệu khác, với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Đất đai, hình sự, dân sự.

lshungb

 

Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Luật sư Công ty Luật TGS

Luật sư Đức Hùng từng công tác tại nhiều tổ chức hành nghề luật sư uy tín, có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tranh tụng hình sự, đất đai, tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình.

lsson

 

Luật sư Hà Huy Sơn – Luật sư Công ty Luật TGS

Là một luật sư giỏi trong lĩnh vực hình sự. Với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Hình Sự, luật sư Hà Huy Sơn đã gây dựng được cho mình thương hiệu riêng và sự uy tín vững chắc đối với khách hàng.

tu van
ảnh đại diện luật sư tuấn

Hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn miễn phí

  • Luật Sư - Văn Phòng Luật TGS Law
  • Địa chỉ: Số 34, Ngõ 187 Trung Kính, Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội.
  • Điện thoại: 0984.769.278
  • Email: contact.tgslaw@gmail.com
  • Hotline: 0985.928.544 - Luật Sư Nguyễn Văn Tuấn

Hoặc Bạn Có Thể Gửi Nội Dung Đăng Ký Tư Vấn Miễn Phí Qua Biểu Mẫu Dưới Đây Chúng Tôi/Luật Sư Sẽ Liên Hệ Lại Ngay!