
Hàng giả, hàng nhái: Vì sao “con voi” chui lọt “lỗ kim”?
Phỏng vấn Luật sư Nguyễn Văn Tuấn
- Thưa Luật sư, pháp luật hiện hành đang quy định như thế nào về hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng? Ông đánh giá như thế nào về thực trạng hàng giả, hàng nhái đang tràn lan trên thị trường – đặc biệt trong những vụ việc quy mô lớn vừa bị phát hiện gần đây như 100 tấn hàng nhái tại TP.HCM hay vụ việc của Đoàn Di Băng?
Luật sư Nguyễn Văn Tuấn – Giám đốc, Công ty Luật TNHH TGS (Thuộc Đoàn Luật Sư Thành Phố Hà Nội), cho biết: Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định rõ các tội danh liên quan đến hàng giả từ Điều 192 đến Điều 195. Theo đó, người nào sản xuất hoặc buôn bán hàng giả là thực phẩm, thuốc, mỹ phẩm, vật tư y tế có thể bị phạt tù lên đến 20 năm hoặc tù chung thân nếu gây hậu quả nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người. Với hàng tiêu dùng, mức hình phạt tối đa có thể lên đến 15 năm tù giam. Ngoài án tù, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, cấm hành nghề hoặc buộc bồi thường thiệt hại.
Bên cạnh đó, theo Nghị định số 98/2020/NĐ-CP của Chính phủ, hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng có thể bị xử phạt vi phạm hành chính lên tới 100 triệu đồng đối với cá nhân và 200 triệu đồng đối với tổ chức. Các hình phạt bổ sung như tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm; buộc tiêu hủy hàng hóa; buộc cải chính thông tin sai lệch cũng được áp dụng nhằm đảm bảo tính răn đe.
Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý các hành vi xâm phạm nhãn hiệu, bao bì sản phẩm hoặc quảng cáo sai sự thật. Đặc biệt, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 đã bổ sung nhiều quy định mạnh tay hơn trong việc buộc doanh nghiệp minh bạch thông tin, truy xuất nguồn gốc hàng hóa và chịu trách nhiệm nếu gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Tuy vậy, trong thực tế, tình trạng hàng giả, hàng nhái vẫn đang diễn ra hết sức phổ biến, tinh vi và quy mô ngày càng lớn. Nhiều đường dây làm giả hàng tiêu dùng, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng đã bị phát hiện với số lượng lên tới hàng chục tấn, như vụ việc lực lượng chức năng TP.HCM vừa triệt phá liên quan đến gần 100 tấn hàng hóa gắn nhãn mác các thương hiệu nổi tiếng như Dior, Chanel, Unilever… nhưng hoàn toàn không có nguồn gốc hợp pháp. Không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, những sản phẩm này còn tiềm ẩn rủi ro nghiêm trọng đối với sức khỏe người tiêu dùng.
Một trường hợp khác đang thu hút sự chú ý dư luận là vụ việc liên quan đến bà Đoàn Di Băng – người nổi tiếng trên mạng xã hội với hoạt động kinh doanh mỹ phẩm và thực phẩm chức năng. Dù các cơ quan chức năng vẫn đang trong quá trình xác minh, nhưng những dấu hiệu như không công bố tiêu chuẩn sản phẩm, không ghi nhãn phụ tiếng Việt, quảng cáo sai sự thật… nếu được xác thực có thể cấu thành hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm và bảo vệ người tiêu dùng.
Thực trạng này cho thấy việc sản xuất và buôn bán hàng giả không còn dừng ở quy mô nhỏ lẻ mà đang được tổ chức bài bản, lợi dụng không gian mạng và thương mại điện tử để tiêu thụ, gây khó khăn cho công tác kiểm tra, xử lý. Trong khi đó, người tiêu dùng lại dễ bị dụ dỗ bởi giá rẻ, quảng cáo hào nhoáng, dẫn đến tiếp tay vô tình cho các hành vi vi phạm pháp luật.
Để ngăn chặn triệt để vấn nạn hàng giả, hàng kém chất lượng, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng trong kiểm tra, điều tra, xử lý vi phạm, đồng thời tăng cường vai trò giám sát của báo chí và cộng đồng xã hội. Việc ứng dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc, minh bạch hóa chuỗi cung ứng và siết chặt điều kiện kinh doanh qua mạng cũng là giải pháp cần được đẩy mạnh trong thời gian tới.
- Trong bối cảnh Thủ tướng phải liên tiếp ban hành công điện yêu cầu siết quản lý, theo ông, lỗ hổng lớn nhất trong quy trình giám sát, hậu kiểm hiện nay đang nằm ở đâu – là quy định pháp luật chưa đủ răn đe, hay do việc thực thi chưa nghiêm?
Luật sư Nguyễn Văn Tuấn – Giám đốc, Công ty Luật TNHH TGS (Thuộc Đoàn Luật Sư Thành Phố Hà Nội), cho biết: Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa hiện nay đã có những quy định mang tính răn đe. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã hình sự hóa nhiều hành vi liên quan đến hàng giả, trong đó có Điều 192 về tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thực phẩm, thuốc, mỹ phẩm, với khung hình phạt cao nhất lên tới tù chung thân nếu gây hậu quả nghiêm trọng. Điều 194 quy định tội sản xuất, buôn bán hàng giả là hàng tiêu dùng, với mức án phạt lên tới 15 năm tù, kèm hình phạt bổ sung như phạt tiền, tịch thu tang vật, cấm hành nghề kinh doanh.
Ở phương diện xử phạt hành chính, Nghị định số 98/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định mức phạt có thể lên tới 100 triệu đồng với cá nhân và 200 triệu đồng với tổ chức nếu vi phạm liên quan đến hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2023 cũng tăng cường yêu cầu về minh bạch thông tin sản phẩm, trách nhiệm của nhà phân phối, đặc biệt trên các nền tảng thương mại điện tử. Như vậy, về cơ bản, khung pháp lý hiện hành không thiếu những công cụ để xử lý các hành vi vi phạm.
Tuy nhiên, điểm yếu hiện nay lại nằm ở khâu tổ chức thực thi – đặc biệt là công tác hậu kiểm. Nhiều loại hàng hóa, đặc biệt trong lĩnh vực mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, hiện chỉ cần thực hiện thủ tục tự công bố sản phẩm là đã được đưa ra thị trường. Cơ quan chức năng không kiểm định, không thẩm định chất lượng trước lưu hành, mà chỉ kiểm tra ngẫu nhiên, hoặc dựa vào phản ánh của người tiêu dùng và báo chí. Điều này tạo ra một khoảng trống lớn, khiến nhiều sản phẩm kém chất lượng dễ dàng len lỏi và tiêu thụ trên diện rộng, trong khi người tiêu dùng hoàn toàn không có khả năng kiểm chứng.
Một số vụ việc gần đây càng làm nổi bật lỗ hổng này. Từ vụ phát hiện gần 100 tấn hàng giả mạo nhãn hiệu lớn tại TP.HCM cho đến các nghi vấn xoay quanh hoạt động kinh doanh của bà Đoàn Di Băng – nơi mà các dấu hiệu vi phạm như không công bố chất lượng sản phẩm, không ghi nhãn phụ bằng tiếng Việt, quảng cáo sai sự thật được báo chí phản ánh rõ ràng – tất cả đều cho thấy việc giám sát và xử lý sau cấp phép đang chưa bắt kịp thực tiễn. Dù dư luận đặt nhiều câu hỏi, song không ít trường hợp vẫn chưa có kết luận điều tra rõ ràng hoặc xử lý nghiêm minh.
Một nguyên nhân khác không thể không nhắc tới là sự thiếu đồng bộ và quyết liệt trong phối hợp giữa các cơ quan chức năng. Các vụ việc vi phạm kéo dài, tái diễn trong thời gian dài nhưng ít bị xử lý đến nơi đến chốn, đã tạo ra tiền lệ xấu và tâm lý xem nhẹ pháp luật trong một bộ phận doanh nghiệp. Đây là lý do vì sao cùng một khung pháp luật, nhưng mức độ thực thi lại có sự khác biệt rõ rệt giữa các địa phương, thậm chí giữa các cơ quan trong cùng một hệ thống.
Để khắc phục triệt để tình trạng này, cần không chỉ hoàn thiện pháp luật mà quan trọng hơn là phải nâng cao năng lực tổ chức thực thi. Hậu kiểm cần được thực hiện một cách thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm, kết hợp kiểm tra định kỳ và đột xuất. Trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan quản lý thị trường, quản lý chuyên ngành cũng cần được quy định rõ ràng và ràng buộc bằng chế tài nếu để xảy ra vi phạm nghiêm trọng trên địa bàn quản lý.
- Thủ tướng từng đặt nghi vấn về khả năng tiêu cực, bị “mua chuộc” trong khâu kiểm tra hàng hóa – theo ông, pháp luật hiện hành có cơ chế nào đủ mạnh để xử lý trách nhiệm của công chức, cán bộ tiếp tay cho hàng giả không?
Luật sư Nguyễn Văn Tuấn – Giám đốc, Công ty Luật TNHH TGS (Thuộc Đoàn Luật Sư Thành Phố Hà Nội), cho biết: Trên phương diện pháp lý, hệ thống quy định hiện hành về trách nhiệm cán bộ, công chức đã khá rõ ràng. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định cụ thể về nghĩa vụ liêm chính, trung thực, không được lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi. Trong trường hợp vi phạm, người có chức vụ, quyền hạn có thể bị xử lý kỷ luật theo nhiều cấp độ: khiển trách, cảnh cáo, giáng chức, cách chức hoặc buộc thôi việc, theo quy định tại Nghị định số 112/2020/NĐ-CP.
Tuy nhiên, khi hành vi vi phạm của công chức có dấu hiệu hình sự, pháp luật còn cho phép truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cụ thể, Điều 354 quy định tội nhận hối lộ với mức phạt lên tới tù chung thân hoặc tử hình nếu số tiền hối lộ từ 1 tỷ đồng trở lên hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài ra, các tội danh như lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356), thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 360) hay bao che tội phạm (Điều 389) cũng có thể áp dụng nếu công chức bị phát hiện có hành vi tiếp tay hoặc dung túng cho hàng giả, hàng nhái.
Đặc biệt, trong lĩnh vực quản lý thị trường, giám sát chất lượng sản phẩm – nơi mà hậu kiểm đóng vai trò quan trọng – thì việc cán bộ buông lỏng, thiếu kiểm tra hoặc tiếp tay cho các đường dây buôn bán, sản xuất hàng giả là hành vi không thể chấp nhận được. Tuy vậy, trên thực tế, không nhiều vụ việc cán bộ vi phạm bị xử lý nghiêm minh. Một số trường hợp bị phát hiện tiêu cực, có dấu hiệu bảo kê cho vi phạm nhưng chỉ dừng lại ở mức kiểm điểm nội bộ hoặc luân chuyển công tác, gây bức xúc trong dư luận.
Bên cạnh chế tài, pháp luật hiện hành cũng quy định rõ các cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động công vụ. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 yêu cầu minh bạch hóa hoạt động công vụ, kiểm soát xung đột lợi ích và xử lý nghiêm hành vi tiếp tay cho các hoạt động bất hợp pháp. Luật Thanh tra, Luật Kiểm toán nhà nước và các quy định chuyên ngành cũng trao quyền cho các cơ quan thanh tra độc lập kiểm tra bất thường đối với cơ quan, đơn vị và cá nhân có dấu hiệu bao che, thiếu trách nhiệm.
Như vậy, có thể thấy pháp luật không thiếu công cụ để xử lý những hành vi tiếp tay cho hàng giả, hàng kém chất lượng. Vấn đề đặt ra hiện nay là liệu các công cụ ấy có được vận hành một cách nghiêm túc, nhất quán và công khai hay chưa? Việc công bố kết luận thanh tra chậm, thiếu minh bạch trong xử lý sai phạm hay chỉ dừng ở mức cảnh cáo nội bộ sẽ không đủ sức răn đe trong bối cảnh hàng giả đang gây thiệt hại lớn cho cả nền kinh tế và sức khỏe người dân.
Muốn siết chặt thị trường, không thể chỉ “đánh” vào doanh nghiệp vi phạm mà phải truy đến cùng trách nhiệm của cán bộ công quyền nếu có dấu hiệu bao che, tiếp tay. Một hệ thống pháp luật mạnh sẽ chỉ thực sự phát huy hiệu lực khi người thực thi pháp luật không đứng ngoài cuộc – mà phải chịu trách nhiệm rõ ràng, minh bạch và có chế tài đủ nghiêm để ngăn chặn sự lặp lại của những vi phạm tương tự trong tương lai.
- Hiện nay, trách nhiệm quản lý thị trường, chất lượng hàng hóa được phân chia cho nhiều cơ quan như Bộ Công Thương, Bộ Y tế, Tổng cục Quản lý thị trường… Theo ông, cách phối hợp liên ngành này có thực sự hiệu quả hay đang tạo ra khoảng trống trách nhiệm?
Luật sư Nguyễn Văn Tuấn – Giám đốc, Công ty Luật TNHH TGS (Thuộc Đoàn Luật Sư Thành Phố Hà Nội), cho biết: Pháp luật hiện hành đã có những quy định cụ thể để thiết lập cơ chế phối hợp. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi năm 2019) và Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định rõ nguyên tắc phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước. Nghị định số 98/2020/NĐ-CP quy định chi tiết xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trong đó giao trách nhiệm xử phạt cụ thể cho lực lượng quản lý thị trường, thanh tra chuyên ngành và chính quyền các cấp.
Trên thực tế, mô hình phối hợp này đôi khi tạo ra sự chồng chéo và đùn đẩy trách nhiệm. Không ít vụ việc hàng giả, hàng nhái bị phát hiện nhưng quá trình xử lý kéo dài do phải chờ xác minh từ các cơ quan có liên quan. Ví dụ, khi xử lý sản phẩm mỹ phẩm hoặc thực phẩm chức năng chưa công bố chất lượng, lực lượng quản lý thị trường thường phải phối hợp với Cục An toàn thực phẩm hoặc Cục Quản lý dược thuộc Bộ Y tế để đối chiếu dữ liệu – quá trình này dễ phát sinh trì hoãn, thiếu hiệu quả.
Một điểm nghẽn khác nằm ở khâu hậu kiểm. Theo quy định tại Điều 32 của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, sản phẩm, hàng hóa lưu thông trên thị trường phải được cơ quan nhà nước kiểm tra chất lượng thông qua hoạt động hậu kiểm. Tuy nhiên, luật chưa thiết lập một đầu mối duy nhất có thẩm quyền điều phối toàn diện các lực lượng liên ngành, dẫn đến tình trạng mỗi nơi làm một phần, nhưng không nơi nào chịu trách nhiệm cuối cùng.
Việc chia cắt chức năng giữa các bộ, ngành hiện nay – nếu không đi kèm một cơ chế liên thông dữ liệu, chia sẻ thông tin và truy xuất trách nhiệm rõ ràng – có thể dẫn đến khoảng trống kiểm soát. Đáng chú ý, trong nhiều vụ việc lớn như đường dây sản xuất hàng giả lên đến hàng trăm tấn ở TP.HCM hoặc các vụ vi phạm liên quan đến mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, người phát hiện đầu tiên lại là báo chí và người dân, chứ không phải hệ thống giám sát của các cơ quan nhà nước.
Có thể thấy rằng, về mặt pháp lý, các quy định điều chỉnh trách nhiệm phối hợp liên ngành đã tồn tại nhưng thực tiễn thi hành vẫn còn hạn chế. Mô hình “phối hợp” nếu không đi đôi với chế tài rõ ràng, người chịu trách nhiệm cụ thể và cơ chế giám sát độc lập, rất dễ biến thành mô hình “phân tán” trách nhiệm. Để khắc phục, cần sớm có cơ chế sửa đổi luật hoặc ban hành nghị định chuyên biệt về phối hợp liên ngành trong hậu kiểm thị trường, đồng thời ứng dụng mạnh mẽ công nghệ để chia sẻ dữ liệu đăng ký sản phẩm, truy xuất nguồn gốc và cảnh báo sớm hành vi vi phạm.
Một hệ thống pháp luật chỉ thực sự hiệu quả khi không chỉ quy định rõ quyền hạn, mà còn xác lập rõ trách nhiệm của từng cơ quan, từng cá nhân trong chuỗi kiểm soát hàng hóa từ sản xuất đến lưu thông. Nếu không, việc hàng giả lọt qua khâu kiểm tra và tràn lan trên thị trường chỉ là hệ quả tất yếu của một cơ chế giám sát chưa thực sự khép kín.
- Ở góc độ luật pháp, chế tài xử lý đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả hiện nay có thực sự đủ sức răn đe không? Liệu có cần thiết phải sửa đổi, bổ sung quy định trong Bộ luật Hình sự hay các văn bản liên quan?
Luật sư Nguyễn Văn Tuấn – Giám đốc, Công ty Luật TNHH TGS (Thuộc Đoàn Luật Sư Thành Phố Hà Nội), cho biết: Hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả không chỉ là hành vi vi phạm pháp luật hành chính mà còn là tội phạm nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015. Cụ thể, Điều 192 Bộ luật Hình sự quy định về tội sản xuất, buôn bán hàng giả với mức hình phạt cao nhất lên đến tù chung thân trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng. Ngoài ra, các tội danh liên quan như buôn lậu, gian lận thương mại, quảng cáo sai sự thật cũng được quy định tại các điều khác trong Bộ luật.
Tuy nhiên, trong thực tế, việc áp dụng các chế tài hình sự để xử lý hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả vẫn còn nhiều khó khăn. Đa phần các vụ việc chỉ xử lý hành chính hoặc hình sự ở mức thấp, chưa đúng với hậu quả gây ra. Một phần nguyên nhân đến từ quy trình điều tra, chứng minh hành vi phạm tội phức tạp, mất nhiều thời gian, nguồn lực. Phần khác là do các quy định pháp luật hiện hành vẫn còn một số điểm chưa rõ ràng, chưa đồng bộ.
Bộ luật Hình sự đã quy định mức xử phạt đối với tội phạm về hàng giả, hàng kém chất lượng nhằm nâng cao sức răn đe. Tuy nhiên, trước diễn biến ngày càng tinh vi và quy mô lớn của các đường dây hàng giả, hàng nhái, nhiều ý kiến cho rằng cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật. Việc sửa đổi nên tập trung vào việc mở rộng thẩm quyền xử lý, tăng cường các biện pháp phòng ngừa, chế tài mạnh hơn đối với hành vi tiếp tay, bảo kê cho tội phạm.
Ngoài Bộ luật Hình sự, các văn bản luật khác như Luật Quản lý thị trường, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa cũng cần được rà soát, bổ sung quy định để đảm bảo sự đồng bộ trong quản lý, kiểm soát và xử phạt. Cơ chế phối hợp liên ngành cũng phải được hoàn thiện để xử lý triệt để các vi phạm ngay từ giai đoạn đầu.
- Thưa ông, trong các vụ việc quy mô lớn, đôi khi hàng trăm tấn hàng giả vẫn “lọt” qua cửa khẩu, kho bãi, thậm chí được bày bán công khai. Ông có cho rằng nên thay đổi phương thức kiểm tra từ “hậu kiểm” sang “tiền kiểm” chặt hơn? Liệu điều này có khả thi trong thực tế?
Luật sư Nguyễn Văn Tuấn – Giám đốc, Công ty Luật TNHH TGS (Thuộc Đoàn Luật Sư Thành Phố Hà Nội), cho biết: Về nguyên tắc, theo Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007, phương thức quản lý chất lượng hàng hóa hiện nay chủ yếu là hậu kiểm – tức là cơ quan chức năng sẽ kiểm tra sau khi hàng hóa đã lưu thông trên thị trường, dựa trên nguy cơ rủi ro hoặc phản ánh từ người tiêu dùng. Hậu kiểm được cho là phù hợp với nền kinh tế thị trường, giảm gánh nặng hành chính, thúc đẩy tự do kinh doanh.
Tuy nhiên, trong bối cảnh tội phạm hàng giả ngày càng tinh vi, có tổ chức và sử dụng nhiều phương thức “lách luật”, việc chỉ dựa vào hậu kiểm là chưa đủ. Với hàng hóa nhập khẩu hoặc sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng như thực phẩm, thuốc, mỹ phẩm, vật tư y tế… rõ ràng cần có những cơ chế “tiền kiểm” chặt chẽ hơn, tức là kiểm tra trước khi lưu hành hoặc trước khi thông quan.
Thực tế, pháp luật hiện hành vẫn cho phép áp dụng tiền kiểm trong một số trường hợp nhất định. Luật An toàn thực phẩm năm 2010 quy định rõ tại Điều 38: một số nhóm sản phẩm phải được kiểm tra nhà nước về an toàn thực phẩm trước khi nhập khẩu hoặc đưa ra thị trường. Bộ Y tế và Bộ Công Thương cũng có các thông tư hướng dẫn danh mục hàng hóa phải đăng ký kiểm tra chất lượng trước khi lưu thông. Tuy nhiên, danh mục này còn hạn chế, và nhiều mặt hàng có nguy cơ cao vẫn chưa được đưa vào diện kiểm tra bắt buộc trước khi bán ra thị trường.
Việc chuyển đổi hoàn toàn sang mô hình tiền kiểm là không khả thi trong bối cảnh hiện nay, vì có thể tạo ra gánh nặng lớn về thủ tục hành chính, ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng, gây ách tắc trong hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, cần thiết phải áp dụng cơ chế kiểm tra rủi ro có trọng tâm, trọng điểm, nghĩa là phân loại doanh nghiệp, mặt hàng và tuyến vận chuyển theo mức độ nguy cơ, từ đó siết chặt tiền kiểm đối với nhóm có rủi ro cao.
Ngoài ra, việc áp dụng công nghệ trong giám sát như truy xuất nguồn gốc bằng mã QR, kiểm soát thông tin sản phẩm qua hệ thống điện tử, và chia sẻ dữ liệu giữa các bộ ngành là yếu tố then chốt giúp tăng cường hiệu quả tiền kiểm mà không làm phát sinh thêm nhiều thủ tục hành chính.
- Từ góc nhìn của một luật sư, ông có kiến nghị nào cụ thể để tăng tính minh bạch, hiệu quả trong việc phòng chống hàng giả, hàng nhái – nhất là trong thời đại thương mại điện tử và logistics phát triển mạnh như hiện nay?
Luật sư Nguyễn Văn Tuấn – Giám đốc, Công ty Luật TNHH TGS (Thuộc Đoàn Luật Sư Thành Phố Hà Nội), cho biết: Từ góc độ pháp lý, để tăng cường hiệu quả phòng chống hàng giả, hàng nhái – nhất là trong bối cảnh thương mại điện tử và logistics phát triển mạnh – cần có một chiến lược đồng bộ và nhiều cải cách thực chất. Trước hết, pháp luật hiện hành cần nhanh chóng được cập nhật để theo kịp sự thay đổi của thị trường và công nghệ. Hiện nay, hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử chủ yếu dựa trên Nghị định 52/2013/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn, song còn nhiều bất cập, chưa có chế tài cụ thể để xử lý các sàn thương mại điện tử, đơn vị giao vận khi tiếp tay cho hành vi bán hàng giả.
Một trong những kiến nghị quan trọng là cần ràng buộc rõ hơn trách nhiệm pháp lý của các sàn thương mại điện tử. Theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi, có hiệu lực từ ngày 01/7/2024), nhà cung cấp nền tảng phải có trách nhiệm kiểm soát thông tin hàng hóa, gỡ bỏ sản phẩm vi phạm, đồng thời phối hợp với cơ quan quản lý khi có yêu cầu xác minh. Tuy nhiên, cần có cơ chế hậu kiểm thực chất và chế tài đủ mạnh nếu sàn không thực hiện nghĩa vụ cảnh báo hoặc kiểm tra người bán.
Bên cạnh đó, các đơn vị logistics – đặc biệt là doanh nghiệp vận chuyển hàng hóa xuyên biên giới – cũng cần được đưa vào diện quản lý và chịu trách nhiệm phối hợp. Việc vận chuyển hàng lậu, hàng giả thông qua các kho trung chuyển, điểm tập kết hiện vẫn là “điểm mù” trong quản lý. Luật Giao dịch điện tử, Luật Hải quan và các văn bản liên quan nên bổ sung quy định buộc đơn vị giao nhận phải có biện pháp xác minh chủ thể gửi hàng, lưu trữ thông tin đơn hàng và hỗ trợ truy xuất nguồn gốc khi cơ quan chức năng yêu cầu.
Một khía cạnh khác cần chú trọng là xây dựng cơ sở dữ liệu liên thông và truy xuất điện tử về hàng hóa. Hệ thống quản lý thông tin sản phẩm, giấy công bố chất lượng, mã số mã vạch, chứng nhận kiểm định… cần được tích hợp và chia sẻ giữa các cơ quan như Bộ Công Thương, Bộ Y tế, Tổng cục Quản lý thị trường, Hải quan… Việc này giúp giảm thiểu gian lận khi doanh nghiệp kê khai thông tin không trung thực, đồng thời tăng hiệu quả giám sát theo chuỗi.
Cuối cùng, không thể thiếu vai trò của truyền thông và pháp luật về trách nhiệm giải trình. Cần buộc các doanh nghiệp – đặc biệt là nhãn hàng, đại lý phân phối lớn – thực hiện trách nhiệm công bố thông tin, chứng minh nguồn gốc hợp pháp của sản phẩm, đồng thời phối hợp tích cực với cơ quan kiểm tra. Trong trường hợp cố tình bao che, tiếp tay hoặc không hợp tác điều tra, doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm dân sự và hình sự theo quy định tại Bộ luật Hình sự và Luật Cạnh tranh.

Đội ngũ luật sư đất đai – Hãng Luật TGS LAWFIRM

Luật sư – Nguyễn Văn Tuấn – Giám Đốc Công ty Luật TGS
Ông là một luật sư giỏi có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đất đai. Luật sư đã tham gia tranh tụng nhiều vụ án tranh chấp đất đai, vụ án hình sự, kinh tế, thương mại,.. trên toàn quốc.

Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Phó Giám Đốc Công ty Luật TGS
Thạc sĩ, Luật sư Nguyễn Đức Hùng là một luật sư giỏi, đã từng công tác tại Công ty Luật TNHH NHB và nhiều công ty luật có thương hiệu khác, với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Đất đai, hình sự, dân sự.

Luật sư Nguyễn Đức Hùng – Luật sư Công ty Luật TGS
Luật sư Đức Hùng từng công tác tại nhiều tổ chức hành nghề luật sư uy tín, có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tranh tụng hình sự, đất đai, tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình.

Luật sư Hà Huy Sơn – Luật sư Công ty Luật TGS
Là một luật sư giỏi trong lĩnh vực hình sự. Với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Hình Sự, luật sư Hà Huy Sơn đã gây dựng được cho mình thương hiệu riêng và sự uy tín vững chắc đối với khách hàng.


Hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn miễn phí
- Luật Sư - Văn Phòng Luật TGS Law
- Địa chỉ: Số 10, ngõ 76 Duy Tân, Dịch Vọng Hậu, Cầu Giấy, Hà Nội.
- Điện thoại: 0984.769.278
- Email: info.tgslaw@gmail.com
- Hotline: 0985.928.544 - Luật Sư Nguyễn Văn Tuấn
Hoặc Bạn Có Thể Gửi Nội Dung Đăng Ký Tư Vấn Miễn Phí Qua Biểu Mẫu Dưới Đây Chúng Tôi/Luật Sư Sẽ Liên Hệ Lại Ngay!